Tình hình biên giới sau chiến tranh 1075-1077 Vấn đề biên giới Việt-Trung thời Lý

Xung đột quân sự lần thứ nhất

Bị mất đất phía bắc sau cuộc chiến, nhà Lý lập tức tập trung vào việc khôi phục những vùng đất này thông qua hoạt động ngoại giao.

Trong 5 châu nhà Tống chiếm được, 2 châu Quang Lang và Quảng Nguyên là quan trọng hơn cả: Quang Lang là cổ họng của Ung châu, Quảng Nguyên nổi tiếng có nhiều vàng bạc[39].

Nhà Tống rất quan tâm tới vùng nhượng địa đã thu được từ các tù trưởng miền núi về quy phục trước cuộc chiến. Vua Tống bổ nhiệm Đào Bật trấn thủ Thuận châu. Với vùng đất mới chiếm được trong chiến tranh, nhà Tống có chủ trương đưa các tội nhân đến ở châu Quảng Nguyên và tổ chức khai thác mỏ vàng bạc. Đồng thời, vua Tống cũng thực hiện thu phục nhân tâm, thưởng cho các tù trưởng theo quy phục như Nùng Huệ Đàm (cháu Thiện Mỹ).

Quang Lang là vùng thuộc Ung châu cai quản, kề với trại Vĩnh Bình. Triệu Tiết rút về trông giữ Quế châu, thấy tình hình yên ổn trở lại, bèn rút bớt chi phí phòng thủ Quang Lang[40].

Khi Quách Quỳ rút quân khỏi Lạng châu, Lý Thường Kiệt cho quân theo sát, tiến lên đóng giữ động Giáp. Thấy Quang Lang không phòng bị chặt chẽ, Lý Thường Kiệt thúc quân đánh úp chiếm lại Quang Lang. Tri huyện Hồ Thanh và Tuần phòng Trần Tung của nhà Tống đều bỏ chạy (sang năm 1078 hai viên này bị kết tội xử chém[41]).

Nhân đà thắng lợi, quân Lý tiến lên chiếm lại 2 châu Tô Mậu và Môn.

Châu Quảng Nguyên có trọng binh nhà Tống đóng giữ nên quân Lý chưa thể xâm nhập. Lý Thường Kiệt từng phao tin tiến đánh Quảng Nguyên để thử quân Tống nhưng tướng Đào Bật vẫn khá điềm tĩnh phòng thủ, vì vậy quân Lý vẫn dừng lại chưa tiến tiếp[42].

Dùng quân sự không đạt kết quả, nhà Lý quay sang biện pháp ngoại giao.

Hoạt động ngoại giao lần thứ nhất

Ngay tháng 7 năm 1077, Lý Nhân Tông sai Lý Kế Nguyên đến biên giới cùng các quan nhà Tống bàn việc biên giới. Lý Kế Nguyên đưa biểu của Nhân Tông lên vua Tống, nhưng vì biểu nhà Lý dùng chữ húy của nhà Tống không kiêng tránh, nên Triệu Tiết không chịu nhận và tâu về với Tống Thần Tông. Tuy nhiên, vua Tống không phản đối, lệnh cho Triệu Tiết cứ thu biểu của Đại Việt chuyển về kinh đô Khai Phong[43].

Sang đầu năm 1078, Lý Nhân Tông cử Đào Tông Nguyên đi sứ. Đào Tông Nguyên mang theo 5 con voi cùng tấu biểu của nhà Lý, với nội dung xin lại các đất Quảng Nguyên và Quang Lang. Trong khi sứ đoàn Đại Việt đi từ Quảng Tây lên Biện Kinh, phía Tống vẫn sợ nhà Lý sẽ đánh phá vùng biên, nên Triệu Tiết vẫn xin thêm quân và mua thêm ngựa phòng thủ. Tháng 6, sứ bộ Đại Việt đến Hồ Bắc, viên chuyển vận sứ tại đó không đủ quân hộ tống, phải bỏ tiền thuê phu dắt voi.

Ngày 2 tháng 9 năm 1078, đoàn Đào Tông Nguyên đến Biện Kinh. Ông chuyển thông điệp của Lý Nhân Tông: Đại Việt sẽ trả lại hơn 1000 người Tống mà quân Đại Việt đã bắt trong trận Ung châu, đồng thời đề nghị phía Tống trả lại đất. Tống Thần Tông ra điều kiện mới, yêu cầu Đại Việt xử tội các tướng lĩnh gây chiến (nhằm vào Lý Thường Kiệt)[44]. Nhưng sau đó Lý Nhân Tông trả lời từ chối yêu cầu này.

Nhà Tống còn có khó khăn ở phía bắc với nước Liêu, vì vậy tháng 8 năm 1078 đã điều Triệu Tiết lên phía bắc trấn thủ Thái Nguyên, cử Tăng Bố ra thay. Tại Quảng Nguyên phía nam, tình hình quân Tống càng khó khăn về nhân sự. Nhiều quân Tống bị dịch bệnh, trong đó có Đào Bật. Tới tháng 10 Đào Bật mất, Tống Thần Tông cử Trương Chi Gián ra thay.

Xung đột quân sự lần thứ hai

Thấy Tống không trả đất, Lý Thường Kiệt lại giục các tù trưởng ở vùng biên là Nùng Trí Xuân (giữ động Cung Khuyết) và Ma Thuận Phúc (giữ động Vũ Lăng ở Bắc Cạn) đánh phá Thuận châu vào đầu năm 1079. Các tù trưởng trung thành với Tống là Linh Sùng Khái (giữ châu Cát Lộng phía bắc Cao Bằng) và Nùng Trí Hội từ châu Quy Hóa mang 2000 quân đến cứu Thuận châu[45].

Quân Nùng Trí Xuân và Ma Thuận Phúc bại trận. Trí Xuân chạy xuống phía nam cầu viện nhà Lý. Khi viện binh chưa ra, Trí Xuân trở lại thì bị Hoàng An Cao giữ Đống châu giết, gia đình và thuộc hạ đều bị bắt. Tới tháng 7 năm 1079, Ma Thuận Phúc và Hoàng Phu cùng bị bắt. Lý Thường Kiệt không muốn gây chiến lớn nên phải bỏ chiến sự vùng biên.

Nỗ lực ngoại giao lần thứ hai

Phía Tống tuy thắng trận nhưng bệnh dịch vẫn khiến Tống mất nhiều tướng lĩnh, quan lại ở Quảng Nguyên: Vương Cảnh Nhân, Dương Nguyên Khanh, Lưu Tử Dân, Trương Thuật, Ngô Hạo đều bị sốt rét mà chết; về quân lính, mỗi năm cắt 3000 thì bị chết 5-6 phần[46]. Vì vậy cuối cùng Tống Thần Tông chấp nhận đề nghị của Lý Nhân Tông: cho Đại Việt trả tù binh Tống để nhận lại đất Tống chiếm.

Nắm được cơ hội đó, Lý Thường Kiệt đưa một số tù binh Tống bị bắt đã đưa vào Nghệ An trở ra bắc, mang trả lại nhà Tống. Các tù binh bị bắt đều đã bị thích chữ vào mặt và tay. Để giữ bí mật, ông lệnh để hơn 200 tù nhân[47] trong những thuyền trát bùn kín, bên trong thắp đuốc liên tục khiến những người ngồi trong thuyền không biết lúc nào là ngày, lúc nào là đêm và không thấy được đường xá đi ra sao. Mỗi ngày chỉ cho thuyền đi khoảng 10-20 dặm rồi dừng lại, rồi quân lính bên ngoài giả đánh trống cầm canh. Vì vậy người ngồi trong thuyền tưởng đi trong vài tháng mới tới nơi.

Đến tháng 10 năm 1079, Đại Việt chính thức trao trả hơn 200 tù nhân này về bên Tống. Tuy không đủ số 1000 người như phía Đại Việt hẹn ban đầu, nhưng Tống Thần Tông vẫn chấp nhận, hạ lệnh nhận tù nhân và trả lại Thuận châu. Tuy trong chiếu của vua Tống chỉ nhắc tới Thuận châu nhưng trên thực tế nhà Tống đã trả lại 4 châu 1 huyện đã chiếm của Đại Việt: Quảng Nguyên, Tư Lang, Môn, Tô Mậu và Quang Lang[48].

Tuy vua Tống trả đất nhưng một số quan lại phía Tống vẫn cố vớt vát lại vài phần đất: hiểu chủ trương của Tống Thần Tông, trước khi vua Tống chính thức ra chiếu trả đất, họ đã đề nghị tách lại đất vốn thuộc Ung châu mà mới nhập vào Thuận châu như động Cống, đồng thời dời bớt dân ở đất sẽ mang trả Thuận châu vào sâu trong nội địa Trung Quốc, đi đến Giang châu, Điền châu, Đống châu[49].

Một số nhân sĩ Trung Quốc đương thời không bằng lòng với việc Tống Thần Tông trả đất cho Đại Việt, cho rằng vì vua Tống tham voi mà Đào Tông Nguyên đưa sang cống năm trước nên mới trả đất, đã đặt ra 2 câu thơ chế nhạo nhà Tống:

Nhân tham Giao Chỉ tượngKhước thất Quảng Nguyên kim(vì tham voi Giao ChỉBỏ mất vàng Quảng Nguyên)

Các nhân sĩ này không hiểu được rằng Tống Thần Tông thấy không thể giữ được đất đó mới trả lại cho Đại Việt[50].

Đấu tranh đòi thêm đất của nhà Lý

Hội nghị Vĩnh Bình

Sau khi Tống trả lại 4 châu 1 huyện, quan hệ hai bên lại thân thiện, thậm chí phía Tống có ý nhún để giữ quan hệ hòa bình với Đại Việt: năm 1081, đoàn sứ Đại Việt sang Tống thừa tới 56 người nhưng vua Tống vẫn chấp thuận cho tất cả vào kinh; ngoài biên giới, một số quan lại từng kết oán với Đại Việt đều được đổi đi thay người khác[51]. Nguyên nhân vì không những lo về nước Liêu, Tống còn vừa bại trận trước Tây Hạ.

Nhân thời cơ này, Lý Thường Kiệt lại thúc đẩy việc tiếp tục đòi đất biên giới là Vật Dương và Vật Ác mà các tù trưởng đã mang nộp cho nhà Tống trước chiến tranh. Động Vật Ác do Nùng Tông Đán mang cùng các động Lôi Hỏa, Kế Thành và Ôn Nhuận nộp nhà Tống năm 1057, nhà Tống đổi gọi các động đó là châu Thuận An. Động Vật Dương do Nùng Trí Hội (dòng dõi Nùng Dân Phú) mang theo Tống năm 1064 và Tống đổi thành châu Quy Hóa. Hai châu này đều ở phía tây bắc Cao Bằng.

Tháng 6 năm 1082, Lý Nhân Tông lại cử sứ bộ mang 50 sừng tê và 50 ngà voi sang triều cống nhà Tống để đòi lại số dân vốn thuộc châu Quảng Nguyên mà nhà Tống đã dời vào sâu trong nội địa. Tống Thần Tông từ chối. Không những thế phía Tống còn đòi nhà Lý trả nốt tù binh bị bắt ở Ung, Khâm, Liêm chưa trả hết. Nhà Lý cũng từ chối. Vì vậy hai bên lại căng thẳng.

Tháng 9 năm 1082, Lý Thường Kiệt sai châu mục châu Thượng Nguyên là Dương Thọ Văn mang quân truy bắt Nùng Trí Hội, tiến đến châu Quy Hóa vào trong đất do nhà Tống quản lý[52]. Trấn thủ Quảng Tây của nhà Tống là Hùng Bản đưa thư trách Lý Nhân Tông. Lý Nhân Tông bèn tạ lỗi và lui quân, nhưng vẫn đề nghị phía Tống trả Vật Dương và Vật Ác. Hai bên bắt đầu đàm phán về vấn đề này.

Tháng 6 năm 1083, Hùng Bản sai Thành Trạc và Đặng Khuyết đi gặp Đào Tông Nguyên ở hội nghị Vĩnh Bình. Do thái độ hai bên đều căng, Đào Tông Nguyên bỏ hội nghị ra về.

Tháng 6 năm 1084, Lý Nhân Tông cử Lang trung bộ Binh là Lê Văn Thịnh và Nguyễn Bội đi dự hội nghị Vĩnh Bình thứ hai với Thành Trạc. Lê Văn Thịnh biện luận rõ về 2 châu Quy Hóa và Thuận An (hai động Vật Dương và Vật Ác) vốn thuộc Đại Việt và đòi trả lại. Vì biết tranh cãi với Thành Trạc sẽ không có kết quả, ông gửi thư cho Hùng Bản, tỏ ý không đồng tình với chủ trương của Thành Trạc muốn vạch biên giới phía nam bằng 18 huyện (Thượng Điện, Hạ Lôi, Ôn Nhuận, Anh Dao, Vật Dương, Vật Ác, Kế Thành, Cống, Lục, Tần, Nhâm, Động, Cảnh, Tư, Kỳ, Kỷ), vì những đất mà họ Nùng mang nộp đều vốn thuộc Quảng Nguyên (đã được trả về Đại Việt)[53].

Theo Hoàng Xuân Hãn, Thành Trạc tự ý xuyên tạc hoặc không hiểu ý của Lê Văn Thịnh, nên đã tâu về rằng Văn Thịnh không đòi Vật Dương và Vật Ác nữa. Trong sử cũ của Việt Nam chép việc này quá vắn tắt và không đầy đủ, chỉ thuật lại 1 câu nói của Lê Văn Thịnh được Thành Trạc tâu về: “Bồi thần không dám tranh chấp”[54].

Dù sau đó Hùng Bản đã nhận được thư và biết chủ ý của Lê Văn Thịnh để tâu về, nhưng vì đường tới Biện Kinh xa xôi, giấy tờ đi lại mất hàng tháng, vì thế chiếu cuối cùng của Tống Thần Tông ban ra tháng 8 âm lịch năm 1084 dựa theo lời của Thành Trạc tâu trước đó, cho rằng Lê Văn Thịnh và Lý Nhân Tông không đòi Vật Dương và Vật Ác nữa. Do đó vua Tống quyết định chỉ mang 6 huyện Bảo Lạc, Luyện, Miêu, Đinh, Phỏng, Cận và hai động Túc, Tang ở ngoài ải Khấu Nhạc trả lại cho Đại Việt, còn hai châu Thuận An, Quy Hóa thì không trả lại[55][56][57].

Tuy kết quả hội nghị Vĩnh Bình thứ hai không đạt được như mong muốn của nhà Lý, nhưng được các sử gia coi là một mốc quan trọng trong lịch sử: lần đầu tiên từ sau sự sụp đổ của đế chế Đường, biên giới giữa Đại Việt và Trung Hoa được xác định một cách cụ thể[58].

Nỗ lực đòi Vật Dương, Vật Ác

Không lâu sau khi chia biên giới với nhà Lý, Tống Thần Tông chết. Tống Triết Tông lên nối ngôi, Cao thái hậu nhiếp chính. Nhà Tống trọng dụng phe Tư Mã Quang, muốn xóa bỏ những sự việc mà Vương An Thạch đã làm nên dưới thời Tống Thần Tông.

Nhà Lý không bằng lòng với việc nhà Tống chỉ trả vài huyện và động nhỏ, nên viết thư sang lại đòi 2 động Vật Dương và Vật Ác. Tháng 6 năm 1085, nhà Tống có thư trả lời khước từ, nói phải theo ý của vua trước Tống Thần Tông.

Tháng 8 năm 1085, ở vùng biên lại xảy ra tranh chấp. Cha con Lương Hiển Trí mang quân đánh Nùng Thuận Thanh ở động Nhâm. Viên quan coi châu Quảng Nguyên nhà Lý là Dương Cảnh Thông liên kết với Nùng Thuận Thanh, sai Đàm An mang quân sang đánh vào đất Tống. Ngay mùng 2 Tết âm lịch năm 1086, vua Tống gửi thư cho Ty kinh lược Quảng Tây yêu cầu tra xét và gửi thư trách vua Lý. Lý Nhân Tông viết thư trả lời, nhắc lại sự việc nhà Tống trả 6 huyện 2 động nhỏ năm 1084, nói rằng đó không phải là đất đã xin, mà đất xin là Vật Dương và Vật Ác. Nhà Tống viết thư đáp lại, với lý lẽ Vật Dương và Vật Ác đã về Tống từ lâu, trong cuộc chiến 1075-1077 không có tranh giành với đất đó, nên Tống không trả[59].

Sợ rằng lời từ chối đó khiến Đại Việt tức giận sẽ động binh tiếp sau khi sứ bộ Đại Việt sang mừng vua Tống lên ngôi trở về, nhà Tống phải tăng thêm quân phòng bị biên giới, điều đạo quân thứ 18 ở Đàm châu xuống Quế châu, quân Hồ Nam xuống Quảng Tây còn quân kinh thành thì xuống đóng ở Hồ Nam.

Đoàn sứ Đại Việt do chánh sứ Lê Chung và phó sứ Đỗ Anh Bối đứng đầu, tới Quảng Tây gặp Thành Trạc. Lê Chung xin được ghi lại lời thư của Lê Văn Thịnh gửi Hùng Bản trước đây để mang về cho Lý Nhân Tông xem. Thành Trạc chấp nhận thỉnh cầu của Lê Chung và tâu về Khai Phong, nhà Tống biết ý nhà Lý vẫn muốn đòi đất cũ.

Tháng 4 năm 1087, sứ bộ Đại Việt đến Khai Phong. Không thấy sử cũ chép việc Lê Chung đề nghị trả đất. Tống Triết Tông phong chức cho cả Lê Chung (viên ngoại lang Lại Bộ), Đỗ Anh Bối (Tây Kinh tả tàng khố phó sứ) và Lý Nhân Tông (từ Giao Chỉ quận vương lên Nam Bình vương); đồng thời hạch tội và cách chức Hùng Bản cùng Thành Trạc do đã đề nghị vua cũ Tống Thần Tông trả 6 huyện 2 động cho Đại Việt năm 1084. Đối với Hùng Bản, lý do là “khi coi Quế châu đã phân hoạch địa giới không đúng”, còn với Thành Trạc vì “bảo lãnh cho Giao Chỉ biện chính việc biên giới và tự tiện đưa thư của Lê Văn Thịnh cho Lê Chung”[60]

Sau khi sứ bộ Đại Việt trở về, nhà Tống tiếp tục điều quân phòng bị biên giới. Lý Nhân Tông nhân việc đó viết thư sang Tống tỏ ý lo ngại quân Tống đe dọa lãnh thổ mình và lại đòi hai động Vật Dương, Vật Ác lần nữa. Tháng 8 năm 1088, nhà Tống viết thư trả lời, giữ quan điểm từ chối đề nghị của Đại Việt.

Như vậy nhà Lý đã kiên trì đòi Vật Dương và Vật Ác 6 lần trong hơn 10 năm từ khi kết thúc chiến tranh (1077), nhưng đều bị từ chối. Từ đó vấn đề Vật Dương, Vật Ác không còn được nhắc tới. Năm 1093, Cao thái hậu mất, Tống Triết Tông tự cầm quyền nhưng chính quyền bị đánh giá là nhu nhược, các phe phái tranh đấu quyết liệt, bên ngoài bị Tây Hạ đe dọa. Tuy nhiên, nhà Lý không nhân cơ hội đó tiếp tục việc đòi đất. Lý Nhân Tông đã trưởng thành và tự cầm quyền, Lý Thường Kiệt được điều vào Thanh Hóa trông coi phía nam, do đó ảnh hưởng của ông với triều đình cũng không còn như trước[61].

Quan hệ ngoại giao giữa Lý và Tống trở lại bình thường[62]. Sử gia Hoàng Xuân Hãn lấy làm tiếc vì sau đó nhà Tống bị nhà Kim lấn lướt ở phía bắc, phải co về Giang Nam, thế lực suy nhược, nhưng các vua Lý vẫn không tận dụng thời cơ đó để mở rộng cương thổ phía bắc[63].